Soạn văn Tự tình 2 chi tiết dành cho học sinh lớp 11

Soạn văn Tự tình 2 chi tiết dành cho học sinh lớp 11

Hãy cùng Vui học Online tham khảo cách soạn văn Tự tình 2 chi tiết dành cho học sinh lớp 11 dưới đây để chuẩn bị bài trước khi đến lớp một cách đầy đủ hơn nhé!

Soạn văn tự tình 2

I: Bố cục 

Cách chia bố cục 1: Bài thơ được chia làm 4 phần theo bố cục của thể thơ bát cú Đường luật: bao gồm đề, thực, luận và kết:

  • Hai câu đề: Giới thiệu hình ảnh của người vợ lẽ đáng thương.
  • Hai câu thực: Cách giải quyết nỗi buồn tủi, tâm tư của người vợ lẽ.
  • Hai câu luận: Khát khao được sống hạnh phúc của người phụ nữ.
  • Hai câu kết: Quy luật khắc nghiệt của thời gian.

Cách chia bố cục 2: Được chia theo tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ:

  • 4 Câu đầu: Nỗi lòng cô đơn, buồn tủi, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ.
  • 4 Câu cuối: Tâm trạng tuyệt vọng của người phụ nữ.

II: Hướng dẫn soạn văn Tự tình 2

Câu 1: Bốn câu thơ đầu của tác giả đang ở trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế nào? (Chú ý không gian, thời gian, giá trị biểu cảm của các từ ngữ: văng vẳng, dồn, trơ, cái hồng nhan, say lại tỉnh, mối tương quan giữa hình tượng trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn khuyết chưa tròn và thân phận nữ sĩ).

Trả lời:

Ở hai câu thơ đầu, nỗi niềm buồn tủi của tác giả được gợi lên vào giữa đêm khuya: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn – Trơ cái hồng nhan với nước non”.

Tiếng trống canh vang lên một cách “dồn”, gấp gáp, liên hồi vừa là sự cảm nhận về bước đi vội vã của thời gian, lại thể hiện trọn vẹn tâm trạng rối bời của thi sĩ. 

Từ “văng vẳng” dùng để tả âm thanh, nhưng trong câu thơ, nó lại đang diễn tả sự vắng vẻ đến mức cô độc của không gian. Trong khoảng không vắng lặng dài vô tận của màn đêm, tiếng trống trở nên nổi bật, vang xa một cách lạ lùng. 

Qua không gian đó, Hồ Xuân Hương cảm nhận một cách rõ nét sự bẽ bàng của duyên phận “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” được đặt ở đầu câu như đang nhấn mạnh nỗi lòng của người phụ nữ. Trơ có nghĩa là bẽ bàng, là tủi hổ, thêm vào hai chữ “hồng nhan” thiếu nữ lại đi cùng từ “cái” thì nó lại mang ý mỉa mai, rẻ rúng hơn cả. Qua đó, ta như thấm thía thêm sự bạc phận đầy xót xa của người phụ nữ. Nhịp thơ 1/3/3 cũng càng nhấn mạnh cho sự bẽ bàng đó.

Thế nhưng, bên cạnh nỗi đau ngậm ngùi đó, tác giả còn thể hiện bản lĩnh của mình thông qua chữ “trơ”. Trơ không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng, mà nó còn là sự thách thức, “trơ” trước “núi non” thì lại càng mang vẻ bền gan, thách đố hơn cả.

Ở hai câu tiếp theo, tác giả đã thể hiện rõ hơn thực cảnh và thực tình của chính mình: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh – Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tan”.

“Say lại tỉnh” phải chăng đang gợi lên cái vòng luẩn quẩn của cuộc sống tẻ nhạt đầy buồn tủi? Tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say thì lại càng tỉnh, rồi lại càng cảm nhận rõ nét nỗi đau thân phận. 

Câu thơ trên vừa là ngoại cảnh, lại vừa là tâm cảnh, và rồi tạo nên sự đồng nhất giữa tăng và người. Cảnh tình được Hồ Xuân Hương thể hiện một cách éo le qua mối tương quan giữa hình ảnh trăng và thân phận của nữ sỉ. Trăng sắp tàn (bóng xế) nhưng vẫn “khuyết chưa tròn”. Cũng như trăng, tuổi xuân của người phụ nữ ấy đã trôi qua, nhưng nhân duyên lại không được trọn vẹn. 

Câu 2: Hình tượng thiên nhiên trong hai câu 5 và 6 góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận như thế nào?

Trả lời:

Hai câu luận (câu 5 và 6) gợi nên nỗi niềm phẫn uất thông qua cảnh thiên nhiên và cảnh được cảm nhận qua tâm trạng của con người: “Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám – Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.

Những sinh vật tưởng chừng như nhỏ bé, hèn mọn kia mà cũng không chịu sống đời mềm yếu. Nó phải mọc xiên, thậm chí “xiên ngang cả đất” để sống trọn đời mạnh mẽ. Đá đã rắn nay lại càng rắn hơn, nhọn hoắt lên với ý chí muốn “đâm toạc chân mây”.

Trong câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ để làm nổi bật sự phẫn uất trong thân phận nhỏ bé của đất đá, cỏ cây, hay nó cũng chính là tâm trạng phẫn uất của người phụ nữ không cam chịu số phận?

Hình ảnh của thiên nhiên: rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch cả đất trời mà oán hờn, không chỉ bộc lộ nỗi phẫn uất mà còn thể hiện tâm thế phản kháng mãnh liệt của chúng. Những hình ảnh thiên nhiên đó đã làm rõ sức sống mãnh liệt cả trong những tình huống bi thương của Hồ Xuân Hương. 

Câu 3: Hai câu kết nói lên tâm sự gì của tác giả? (Chú ý nghĩa của từ xuân, từ lại; nghệ thuật tăng tiến: Mảnh tình – san sẻ – tí – con con).

Trả lời:

Qua hai câu kết, tác giả đã thể hiện tâm trạng chán chường, buồn tủi của mình một cách tinh tế: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con!”.

Ngán là ngán ngẩm, là chán chường một cách mệt mỏi. Tác giả đã quá ngán cảnh đời éo le bạc bẽo khi tạo hóa cứ chơi một vòng quay luẩn quẩn mãi miết “xuân đi xuân lại lại”. Mùa xuân của thiên nhiên, của muôn ngàn hoa lá thì có thể đi rồi trở lại sau một vòng tuần hoàn, nhưng mùa xuân của con người thì nào được như thế? Một khi tuổi xuân của con người trôi qua, nó sẽ không bao giờ trở lại, nhất là đối với tuổi xuân ngắn ngủi của người con gái. Từ “lại” thứ nhất là thêm lần nữa, nhưng từ lại thứ hai lại diễn tả sự trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân.

Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “Mảnh tình – san sẻ – tí – con con” dùng để nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần. Từ đó, nghịch cảnh được bộc lộ qua từng ý thơ càng được tô đậm và thêm phần éo le. “Mảnh tình” đã bé, ấy vậy mà còn phải “san sẻ” thành nhiều phần, chỉ còn lại cho ta “tí con con”. Đây chính là sự xót xa của tâm trạng người đã mang thân đi làm lẽ. Tuy nhiên, nó không chỉ dừng lại ở câu chuyện của tác giả, mà nó còn là tâm trạng chung của những người phụ nữ đang trong hoàn cảnh chung chồng lúc bấy giờ. Đối với họ, hạnh phúc luôn là một chiếc chăn quá hẹp, chẳng thể giữ cho riêng mình, mỗi người chỉ đành ôm một góc, chỉ mong được sưởi ấm đôi chút bởi tình yêu nhưng lại quá đỗi khó khăn. 

Câu 4: Bài thơ vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương, Anh (chị) hãy phân tích điều đó.

Trả lời: 

Xuyên suốt bài thơ, tâm trạng của Hồ Xuân Hương đã được bộc lộ để làm rõ số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không có quyền được lựa chọn cuộc sống của mình, lại càng không thể giữ lấy tình yêu cho riêng họ. Quãng thời gian đẹp đẽ nhất của đời người con gái lại rẻ rúng đến lạ thường, họ chỉ có thể đi lấy chồng chung, mang thân phận một người vợ lẽ, im lặng nuốt đau thương, tủi hờn vào lòng mà sống đời cô độc. Tuy nhiên, ẩn sâu bên trong nỗi niềm phẫn uất đó, Hồ Xuân Hương vẫn thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ của mình qua hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ. Như rêu “xiên ngang mặt đất”, như đá “đâm toạc chân mây”, tác giả luôn gồng mình lên để chống lại sự nghiệt ngã của số phận.

Đó là cách soạn văn Tự tình 2 chi tiết mà các bạn học sinh lớp 11 có thể tham khảo. Đừng quên xem thêm các bài soạn văn khác tại Ngữ văn lớp 11 hoặc trong list bài soạn văn 11

We on social :

Facebook

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *